Toan tính đằng sau các phiên điều trần về “tự do tôn giáo” (P1)

 Mã Phi Long

Từ khi được thành lập cho đến nay, USCIRF đã nhiều lần cử các đoàn lâm thời vào Việt Nam. Mặc dù, đoàn USCIRF luôn đặt vấn đề: “Không phải vào Việt Nam để phê phán, khuyến khích tự do tôn giáo kiểu Mỹ mà là để tìm hiểu tình hình sát thực tế, báo cáo Tổng thống và Quốc hội Mỹ, thúc đẩy tự do tôn giáo và quyền cơ bản của con người”. Tuy nhiên, trong các chuyến thăm Việt Nam, đoàn USCIRF đều đặt vấn đề thẳng với ta: “Vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa đạt theo các Công ước quốc tế”“Vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn trong quan hệ Việt – Mỹ”, “Nhân quyền là trọng tâm quan hệ Việt – Mỹ” … Trong các cuộc làm việc với Chính phủ và các ban ngành, chức năng của Việt Nam, đoàn USCIRF còn ngang nhiên đưa ra những đề nghị thiếu thiện chí, gây căng thẳng trong đối thoại, trao đổi về tình hình tôn giáo như việc: đề nghị Việt Nam phải công nhận quyền được “tự do bày tỏ ý kiến” của các cá nhân, tổ chức tôn giáo; phải đẩy nhanh tiến độ đăng ký sinh hoạt cho các điểm, nhóm Tin Lành tại khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc.



Đáng chú ý, liên tục trong nhiều năm, USCIRF đều gây sức ép với ta đòi thả tự do cho số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo có hoạt động vi phạm pháp luật đang thi hành án phạt tù mà họ cho là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo” như: Hồ Đức Hòa, Lê Quốc Quân, Trần Thị Nga, Lê Đình Lượng, Nguyễn Năng Tĩnh… Như vậy, từ hoạt động của đoàn USCIRF tại Việt Nam trong những năm qua cho thấy rõ ràng USCIRF là công cụ để Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành các hoạt động chống phá nước ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”, công khai can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, lấy vấn đề “tự do tôn giáo” để gây sức ép, để mặc cả, đánh đổi vấn đề chính trị với lợi ích kinh tế.

Trên cơ sở những thông tin, nhận định sai lệch của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, trong các phiên điều trần “về tự do tôn giáo” trước Quốc hội Hoa Kỳ, số cực hữu trong chính giới Mỹ, EU thường xuyên ra điều kiện, yêu cầu Việt Nam cải thiện “tình trạng vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo” với những dẫn chứng thiếu khách quan khi cho rằng: “tình hình vi phạm tự do tôn giáo ở Việt Nam tiếp tục có khuynh hướng tiêu cực”; cán bộ “sách nhiễu, đánh đập, bắt giữ, truy tố, theo dõi, cấm đi lại đối với những người theo các nhóm tôn giáo không được Nhà nước cho đăng ký”; “trong năm 2018, chính quyềm tiếp tục đàn áp trên diện rộng các lãnh đạo tôn giáo, các nhà bảo vệ nhân quyền, các nhà hoạt động ôn hòa và những người chỉ trích khác trên toàn quốc, đặc biệt là để đáp trả lại những cuộc phản đối diện rộng chống lại Luật An ninh mạng mới hà khắc và dự luật về đặc khu kinh tế”…

Đáng chú ý, theo thông lệ hàng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều đưa ra 2 bản báo cáo:  “Báo cáo về tình hình nhân quyền thế giới” và “Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế”. Hai báo cáo này tuy gọi là về “tình hình thế giới” nhưng Hoa Kỳ tập trung chỉ trích vào những nhà nước do các Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền, trong đó có Việt Nam. Năm 2004, Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách CPC, năm 2006 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ rút tên Việt Nam khỏi danh sách CPC... Tuy nhiên, sau đó, hầu hết các báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều cho thấy sự “lươn lẹo” khi một mặt thừa nhận “Việt Nam có một số tiến bộ nhất định trong việc cho phép người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng...”, nhưng mặt khác họ vẫn kêu gọi chính phủ Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC.

Nhận xét